Tuesday, January 29, 2013

Cách học và ôn thi hiệu quả

1. Học phải có thái độ, động cơ học tập rõ ràng - Cho dù thời gian bạn dành cho việc học nhiều hay ít thì đây là yếu tố quan trọng nhất tác động đến việc học của bạn. Bạn sẽ không thể nào học được một cách hiệu quả nhất nếu không có được một thái độ học tập đúng. PGS.TS. Tâm lý học Lê Đức Phúc cho rằng thái độ học tập, trong đó động cơ là yếu tố quyết định. Có động cơ bên trong và động cơ từ bên ngoài. Người đi thi bị áp lực từ gia đình, bạn bè, thậm chí cả dòng họ. Tuy nhiên, các bạn nên tự xác định cho mình một động cơ đúng đắn, tự giải đáp các câu hỏi như: “Học để làm gì? Học cho ai?” Học để phát triển toàn diện nhân cách, để có sự thành đạt cá nhân và do đó, cống hiến có hiệu quả cho cộng đồng chứ không phải để lấy được cái bằng ĐH để hợp thức hóa việc xin việc và thăng tiến sau này. Nếu không có thái độ đúng, bạn sẽ không thể nỗ lực hết mình và vượt qua được mọi khó khăn. Vậy thế nào là một thái độ học tập tốt? a. Lạc quan tích cực: đây là yếu tố then chốt. Đây cũng là yếu tố góp phần quan trọng vào thành công của rất nhiều con người thành đạt. b. Có mục đích: nếu bạn lấy mục đích học vì điểm số thì việc học đối với bạn sẽ chỉ là một công việc cực nhọc mà thôi. Mỗi bạn đương nhiên sẽ có một mục đích riêng, nhưng bạn không nên học vì điểm, học vì bố mẹ bắt học. Hãy xác định mục đích cho việc học của mình, ví dụ như khi học tiếng Anh thì xác định mình học nó để tiếp cận nền tri thức đồ sộ của nhân loại, học để giao lưu với bạn quốc tế. Khi học lịch sử thì xác định học để tìm hiểu về lịch sử dân ta, để có vốn kiến thức văn hóa nền tảng để có thể giới thiệu quê hương, đất nước mình với bạn bè năm châu. Còn khi học toán, lý, hóa, bạn xác định học để rèn luyện cho mình được đầu óc tư duy logic tổng hợp… 2. Có phương pháp học hiệu quả a. Có mục tiêu và kế hoạch cụ thể - Theo quy luật 90/10, cứ 10 phút bạn bỏ ra để lập kế hoạch thì bạn sẽ tiết kiệm được 90% thời gian hoàn thành và hiệu quả công việc. - Từ bây giờ bạn hãy lấy một tờ giấy và xác định lại mục tiêu của mình: + Bạn định thi đỗ trường nào? + Số điểm dự kiến là bao nhiêu? + Bạn thực sự muốn chiến thắng? - Sau đó bạn hãy lên lịch cho từng công việc cụ thể để tiến tới mục tiêu đó. Có ai đó đã nói rằng chúng ta không bao giờ có đủ thời gian để làm tất cả mọi việc, nhưng luôn có đủ để làm những việc quan trọng nhất. Mỗi ngày bạn đừng tham lam làm hết tất cả mọi việc, ôn hết tất cả các môn mà hãy lập ra một bảng ưu tiên các môn và kế hoạch ôn từng ngày. Khi bạn thi đại học, đương nhiên các môn thi đại học vẫn là ưu tiên hàng đầu, nhưng bạn cũng đừng có bỏ quá nhiều thời gian vào đó. Khoa học đã chứng minh rằng, nếu bạn học một môn liên tục quá 45 phút thì khả năng nhớ sẽ giảm rất nhanh trong thời gian sau đó. Tóm lại bạn hãy lên một cái lịch cụ thể cho hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng, vài tháng. Định ra việc gì là quan trọng hơn thì làm trước. b. Cách tư duy hiệu quả Tại sao có người học kém? Tại sao có người học giỏi? Thực ra học kém hay giỏi không phải là bản chất, mà phần nhiều là do họ chưa biết cách điều khiển bộ não của mình mà thôi. Não bạn có 2 bán cầu, não trái chủ yếu cho tư duy logic, ngôn ngữ còn não phải là cho tưởng tượng hình ảnh. Từ trước đến giờ người ta dạy các bạn là đa số tác động vào não trái, tức là giảng toàn chữ nên trong giờ học, não phải của bạn không có việc làm, cứ tưởng tượng mông lung dẫn đến không tập trung gì cả. Vì vậy, muốn học hiệu quả chúng ta phải tìm cách vận dụng cả 2 não của mình. Một phương pháp đơn giản nhất giúp học các môn học thuộc dễ hơn cả chính là tưởng tượng. Từ bây giờ bạn hãy tìm cách tưởng tượng thật nhiều vào. c. Cách ghi nhớ hiệu quả Làm sao để nhớ cả bảng hệ thống tuần hoàn? Nhớ tất cả các sự kiện lịch sử trong sách? Bạn hãy thực hiện theo cách sau: - Ghi thành dàn bài: Trước tiên bạn đọc toàn bài môn bạn đang học 1 lần - 2 lần - hoặc cũng có thể là 3 lần. Ðến lúc bạn nắm chắc yêu cầu bài mới thôi. Sau đó, bạn tóm tắt bài đó thành 1 dàn bài đại cương gồm nhiều mục như 1, 2, 3; trong các mục này lại có các ý nhỏ hơn được đánh dấu bằng a, b, c… Mỗi mục này bạn đều phải đặt tiêu đề cho nó. - Nhẩm trong óc: + Lần đầu tiên, bạn hệ thống bài bằng cách "nhẩm trong óc" nhẩm từng phần một của dàn bài, chỗ nào quên bạn dừng lại, lật dàn bài ra xem lại. Bạn cứ tiếp tục nhẩm sang phần khác và đừng quên các phần quan trọng đáng ghi nhớ, đừng bỏ sót một chi tiết nào. Lần lượt như vậy cho đến hết toàn bài. + Lần thứ hai, bạn bắt đầu nhẩm lại tất cả có hệ thống toàn bài hơn. Lần này bạn ghi nhận phần đã bị quên. Bạn mở sách xem lại, ghi ra giấy hoặc đánh dấu những phần đó. Bạn tìm ý những chỗ quên sót để rồi học lại cho nhuần nhuyễn. + Lần thứ ba, bạn hệ thống lại bài và bạn đặt thành câu hỏi rồi tự giải quyết trong óc câu hỏi ấy. Bạn xem lại việc trả lời có thông suốt phân minh chưa. Nếu chỗ nào vướng mắc lật dàn bài ra xem. - Ghi ra giấy: Nhất là những công thức, những định lý, định đề. Khi ghi, bạn chỉ tóm tắt phần quan trọng, sao cho khi mở trang giấy ra nhắc nhở lại bạn hệ thống bài học bằng trí nhớ mà không cần mở sách. Tránh ghi rườm rà, dư thừa, vừa mất thời gan vô ích mà lại phí sức. Nói chung làm thế nào để bạn có thể tổng hợp các phương pháp (nhẩm nhớ - ghi chép - và lập dàn bài) sao cho tạo được điều kiện để bạn đọc bài mau thuộc đó là đíều quan trọng nhất. d. Cách học hiệu quả Về mặt nhận thức, thí sinh nên cố gắng tập trung vào những kiến thức cơ bản. Khối kiến thức này thường tập trung ở một số mảng, ví dụ: khái niệm, giả thuyết, quy luật, lý luận... Khi học, cần hiểu rõ bản chất của vấn đề, vì thế người học phải xác định các đặc điểm, cách thức vận dụng những khái niệm, quy luật, lý thuyết... trong việc giải quyết những vấn đề cụ thể. Từ đó, yêu cầu tiếp theo là phải luyện tập để hình thành kỹ năng giải quyết vấn đề (đề thi cũng là một dạng vấn đề cụ thể cần giải quyết). Có hai dạng: vận dụng theo mẫu và vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt. Khi ôn, nên chú ý vận dụng theo cả hai tuyến: - Theo chiều dọc: trong phạm vi cùng loại vấn đề, cùng chuyên môn, lĩnh vực... - Theo chiều ngang: trong phạm vi những chương mục, môn học khác nhau nhưng có liên quan đến nhau... Sau khi đã học xong lý thuyết, nên tự đặt ra những câu hỏi liên quan đến nội dung ôn thi để kiểm tra trình độ của mình. Đó cũng là một cách để nhớ lâu và tạo cơ sở để tăng dung lượng trí nhớ làm việc (working memory). e. Về thời gian học Thời gian học hiệu quả thường khoảng 45 phút sau đó hãy nghỉ ngơi thư giãn một chút. Và nếu bạn cảm thấy quên kiến thức thì cũng đừng có cố gắng quá để nhớ lại nó làm gì cả. Nguyên tắc của học hiệu quả là phải để cho đầu óc thư giãn, rồi tự kiến thức nó sẽ về. Nếu bạn muốn ôn lại bài thì hãy ôn lại sau đó 10 phút, rồi 1 ngày, rồi 1 tuần, và một tháng. Xác định thời điểm học cũng rất quan trọng. Khả năng lao động trí óc của con người tăng dần từ sáng sớm tới gần trưa, sau đó giảm dần - sau bữa ăn trưa nên có ngủ trưa chút ít từ 20-30 phút cũng được. Hiệu suất học buổi trưa còn cao hơn buổi sáng, đặc biệt đối với những môn học khó. Buổi chiều có hơi giảm vào giờ ăn tối. Sau đó, dường như có một chu kỳ mới và khả năng trí óc lại tăng dần cho tới khoảng 21 giờ, sau đó lại giảm. Không nên thức sau 22 giờ - vì đầu óc sau một ngày làm việc dường như đã bão hòa, không còn tiếp thu thêm được nữa. Lúc rời bàn học, các em có thể lật qua, lướt mau những dòng đầu của các bài đã ôn từ đầu để xác định mình đã học được tới đâu. Làm như vậy cũng tựa như mình gởi tất cả vào tiềm thức bộ nhớ trước khi đưa não vào giấc ngủ. f. Về không gian học Hãy ngồi gần cửa sổ, càng tiếp xúc với ánh sáng tự nhiên và luồng không khí lưu thông đều trong phòng, bạn càng khỏe. Nếu có thể, bạn hãy tìm loại nhạc Baroque để làm nền khi học. Người ta nói rằng loại nhạc này có thể rút ngắn thời gian học tiếng anh hiệu quả từ 3 năm xuống còn 3 tháng. 3. Đảm bảo sức khỏe khi ôn thi a. Không nên học ngay sau bữa ăn. b. Trong một buổi học, tránh học liên tục 3-4 giờ liền. Cũng giống như ở lớp, sau 45 phút - 1 giờ cần có giải lao. Những phút giải lao này có mục đích làm thư giãn thần kinh, trí óc. Nên đi đi, lại lại, giải trí bằng trò chơi nhẹ nhàng, vui vẻ, tránh vận động nhiều và mạnh. c. Ngủ cho ra ngủ, khoảng 8 tiếng một ngày, nhiều nhất là về đêm, để cho ấn tượng ngày hôm trước dịu nhạt, những ấn tượng ngày mới chưa hình thành, sáng sớm tỉnh dậy có một bộ óc "mới tinh", có khả năng hoạt động tốt nhất. Vả lại, có ngủ được say thì trong giấc ngủ vào giai đoạn có giấc mơ, cũng là lúc mà các kích thích tố tăng trưởng được tiết ra giúp các em mau lớn thêm nữa. d. Vấn đề ăn uống cũng rất quan trọng vì chỉ còn giai đoạn này (tuổi dậy thì) để đạt tới chiều cao và phần nào cân nặng của người trưởng thành. Cần phải ăn nhiều hơn người lớn, cả về lượng lẫn về chất. Không bỏ qua bữa nào, nhất là bữa điểm tâm, vì bữa chiều hôm trước cách xa tới khoảng 10 tiếng, nếu nhịn ăn thì khi học không ngáp cũng ngủ gật, đôi khi mệt quá sẽ bị xỉu! Nói chung, con gái cần đạt 2500 calo (người nữ lớn chỉ cần 2000), con trai 2900 calo (người nam trưởng thành cần khoảng 2600).

Monday, January 28, 2013

Bác Hồ rất quý trọng tình cảm gia đình


Tình cảm gia đình là cơ sở tốt đẹp, bền vững của lòng yêu nước, yêu dân. Là người cả đời vì nước, vì dân, Bác Hồ rất quý trọng tình cảm gia đình.
 
Năm 1929, Bác Hồ từ châu Âu về nước Thái Lan. Thời gian ở Thái Lan, Bác Hồ giúp anh em cán bộ Việt kiều củng cố, phát triển tổ chức Việt kiều và uốn nắm lại nội dung tuyên truyền của tờ báo Thân ái. Bác Hồ thường đi thăm trụ sở của các đoàn thể Việt kiều. Một lần, trên đường đi thăm các trụ sở đó, mới đi được nửa đường thì trời tối, Bác Hồ ghé vào một gia đình Việt kiều làm thợ mộc, ngủ nhờ. Đêm đó, chị chủ nhà ngâm Kiều ru con. Bác Hồ lắng nghe. Sáng hôm sau lúc đi đường, Bác Hồ nói với đồng chí Trần Lan, bạn đồng hành, giọng rất âu yếm:
   “Xa nhà chốc mấy mươi niên
    Đêm qua nghe tiếng mẹ hiền ru con”.
   Chỉ lời ru con của chị chủ nhà Việt kiều cũng làm Bác Hồ xúc động tình cảm gia đình đến thế!
   
Cuối năm 1946, tại Bắc Bộ Phủ, Bác Hồ gặp chị gái Nguyễn Thị Thanh. Sau hơn ba mươi năm xa cách, khi gặp chị gái, Bác Hồ dang hai tay ôm chặt lấy đôi vai người chị và xúc động nói “ôi chị, chị có khỏe không?”. Gặp chị gái, chị em nói chuyện hơn nửa giờ trong nhà khách Chính phủ, Bác Hồ và bà Nguyễn Thị Thanh đôi mắt đều ngấn lệ.
     
Ở Việt Bắc Bác Hồ thường đến thăm các gia đình người dân tộc
Ảnh: Tư liệu
 
Cũng cuối năm 1946, cũng tại Bắc Bộ Phủ, Bác Hồ gặp anh trai Nguyễn Sinh Khiêm. Hai anh em gặp nhau cũng sau hơn ba mươi năm xa cách, Bác Hồ xúc động nói: “Anh mới ra, anh khỏe không, quý hóa quá. Chị Thanh về trong đó có khỏe không anh? hôm chị ra đây nhưng em bận quá, không tiếp chị được nhiều,... em có mời chị ở chơi đến chiều nhưng chị về”. Ông Nguyễn Sinh Khiêm trả lời: “Chị Thanh về có nói chuyện lại, bảo chú gầy lắm, công việc bận suốt ngày,...”. Bác Hồ nghe anh trai nói rồi đọc:
    “Chốc đà mấy chục năm trời
    Còn non, còn nước, còn người hôm nay”.
    Sau khi nhận cam Xã Đoài của anh trai, Bác Hồ đọc luôn câu ca dao Xứ Nghệ:
    “Quê ta ngọt mía Nam Đàn
    Bùi khoai chợ Rộ, thơm cam Xã Đoài
    Ai về ai nhớ chăng ai
    Ta như dầu đượm thắp hoài năm canh”.
   
Đọc mấy câu ca dao trên, Bác Hồ chớp chớp mắt, hỏi anh trai về tình hình tỉnh Nghệ An, huyện Nam Đàn, về các hoạt động của chính quyền, đoàn thể địa phương, về số người thân và bạn bè thời niên thiếu. Trả lời những câu trên, ông Khiêm khen Bác Hồ “chú đi lâu mà tài nhớ thế”.
   
Năm 1950, nghe tin anh trai Nguyễn Sinh Khiêm mất, do hoàn cảnh kháng chiến, không về quê chịu tang anh được, ngày 11-9-1950, Bác Hồ từ chiến khu Việt Bắc đã điện cho Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu IV, bức điện số 1229, nhờ chuyển cho làng Kim Liên, họ tộc Nguyễn Sinh. “Nghe tin anh Cả mất, lòng tôi rất buồn rầu. Vì việc nước nặng nhiều, đường sá xa cách, lúc anh đau yếu tôi không thể trông nom, lúc anh tạ thế tôi không thể lo liệu.
   
Tôi xin chịu tội bất đệ trước linh hồn anh và xin bà con nguyên lượng cho một người con đã hy sinh tình nhà vì phải lo việc nước”.
   
Cuối năm 1954, Văn phòng Phủ chủ tịch nhận được công văn từ khu IV gửi ra Hà Nội báo tin bà Nguyễn Thị Thanh – chị gái Bác Hồ mất. Công văn này đến chậm. Bác Hồ xem kỹ công văn đó, đăm chiêu suy nghĩ rồi Bác gấp cẩn thận, cho vào phong bì, xếp vào một chỗ riêng trong ngăn để sách của Bác. Cũng dịp này, trong gói công văn từ miền Nam gửi ra Văn phòng Phủ chủ tịch, có bức thư gửi Hồ Chủ tịch, có tấm ảnh chụp bộ đội ta đứng hai bên mộ cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc ở Cao Lãnh. Ảnh này nhỏ, nước ảnh mờ nhưng vẫn nhìn thấy rõ hàng chữ khắc trên mộ chí. Văn phòng Phủ chủ tịch chuyển thư và ảnh đó cho Bác Hồ nhưng không thấy Bác chuyển lại. Mãi đến giữa tháng 9 – 1969, sau khi Bác qua đời, mới thấy bức thư và tấm ảnh để trong chiếc hộp gỗ khảm đựng thiếp in hoa, để trên ngăn sách cao nhất trong buồng làm việc tại ngôi nhà sàn Bác ở. Với người thân trong gia đình, người mẹ, người cha, người chị, người anh, Bác Hồ thờ ở trong tim Bác và trái tim đó – Trái tim Bác Hồ thuộc về người thân trong gia đình, về họ tộc, về quê hương Nghệ An, về đất nước Việt Nam, về toàn thể nhân dân Việt Nam chúng ta.

Tấm lòng của Bác Hồ trong việc bồi dưỡng lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ

Sinh thời, Bác Hồ rất quan tâm đến thế hệ trẻ - thế hệ cách mạng cho đời sau. Bởi theo Bác: "Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội". Người đặc biệt dành nhiều tình cảm, sự quan tâm chăm lo, bồi dưỡng, động viên đến các thế hệ thanh niên của nước nhà. "Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc làm rất quan trọng và rất cần thiết’’. Lời căn dặn đó của Bác là chân lí trường tồn. Sự phát triển bền vững của đất nước luôn trông cậy vào thế hệ trẻ.
Thế hệ trẻ rất năng động và là thế hệ kế thừa sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước và dân tộc. Thực hiện lời dạy của Người, nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng việc chăm lo giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ, tạo điều kiện để thế hệ trẻ được phát huy tài năng, sức lực vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Thế hệ trẻ hôm nay đã và đang khẳng định mình, đóng góp to lớn cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 
Thanh niên là đối tượng quần chúng đặc thù của Đảng, nên: "Cần phải đi sâu vào đời sống, hiểu rõ tâm lý của các lớp thanh niên và giúp đỡ họ giải quyết vấn đề một cách thiết thực"(Theo Hồ Chí Minh). Đây chính là tiền đề, là một trong những điều kiện hết sức quan trọng để định ra chiến lược, đường lối, nội dung giải pháp giáo dục bồi dưỡng và tổ chức thanh niên thành lực lượng chính trị hùng hậu kế tục trung thành và xuất sắc sự nghiệp của Đảng và dân tộc. Bác yêu cầu mỗi đoàn viên, thanh niên phải tự giác rèn luyện, không ngừng học tập, gương mẫu xung phong trong mọi công việc. Đi đôi với việc giáo dục trí lực, nâng cao trình độ chuyên môn, nắm vững khoa học kỹ thuật, mỗi đoàn viên, thanh niên phải thường xuyên trau dồi đạo đức cách mạng bởi theo Người: "Thanh niên phải có đức, có tài. Có tài mà không có đức ví như một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những không làm được gì lợi ích cho xã hội, mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà không có tài ví như ông Bụt không làm hại gì, nhưng cũng không có lợi gì cho loài người". Để tuổi trẻ trở thành người cách mạng chân chính, những con người mới XHCN, Bác nhấn mạnh việc cần thiết phải giáo dục tính trung thực, ngay thẳng, tác phong khiêm tốn, giản dị, tinh thần lao động tích cực, siêng năng, táo bạo và sáng tạo cho lớp trẻ. Tuổi trẻ phải có tinh thần cố gắng vươn lên, sống cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, luôn đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên hết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Chống tâm lý tự ti, tự lợi, chỉ lo vun vén cho lợi ích riêng và sinh hoạt riêng của mình, chống tâm lý ham sung sướng và tránh khó nhọc, chống thói xem khinh lao động, nhất là lao động chân tay... đó là những thói xấu kìm hãm chí tiến thủ của tuổi trẻ. Dưới tác động của khoa học công nghệ hiện đại, kinh tế thị trường làm biến đổi sâu sắc nhận thức, tư tưởng, tình cảm, đặc biệt là quan hệ giá trị và định hướng giá trị sống của lớp trẻ. Tuổi trẻ có tinh thần đổi mới mạnh, dám nghĩ, dám làm, nhưng dễ phiêu lưu, liều lĩnh; có khát vọng về tự do dân chủ, nhưng cũng dễ " vô chính phủ", tự do vô kỷ luật cần được uốn nắn, giúp đỡ và định hướng đúng dắn về mặt tư tưởng để phát huy tốt tính tự lập, tự khẳng định mình nhưng tránh chủ quan, tự phụ và ngộ nhận giữa hiện tượng và bản chất, đúng và sai, thật và giả; tuổi trẻ thường giàu mơ ước, lạc quan nhưng do kinh nghiệm thực tế còn ít, chưa từng trải, cho nên chưa vững vàng, dễ nản lòng, do vậy dễ dẫn đến tự ti. Lớp trẻ rất thực tế, coi trọng tính hiệu quả nhưng cũng dễ trở thành thực dụng, chạy theo lợi ích vật chất trước mắt; thiếu sự phấn đấu rèn luyện, coi nhẹ đạo đức; có thể dẫn tới " cá nhân chủ nghĩa", ích kỷ, hẹp hòi, coi nhẹ vai trò của tập thể, của cộng đồng, thờ ơ với phong trào chung…
Việc bồi dưỡng lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ phải được tiến hành thường xuyên và liên tục. Thông qua tổ chức nghiên cứu, học tập quán triệt các chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, học tập Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.... Song tùy vào trình độ, tâm lý từng đối tượng thanh niên mà tổ chức học tập, nghiên cứu sao cho hiệu quả thiết thực. Tuổi trẻ là nguồn nhân lực hết sức quan trọng của quốc gia. Để tạo nguồn nhân lực trẻ có chất lượng đáp ứng sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước, bên cạnh sự quan tâm của Đảng và Nhà nước thì các tổ chức đoàn cần luôn chú trọng đẩy mạnh công tác dạy nghề và hướng nghiệp cho thanh niên nhất là đa dạng hóa trong dạy và nâng cao tay nghề theo hướng tập trung vào dạy nghề dài hạn có chất lượng cao để đáp ứng nhu cầu thị trường. Đẩy mạnh phong trào thi đua học tập, tuổi trẻ phải là lực lượng đi đầu trong xây dựng xã hội học tập, bằng nhiều hình thức đa dạng để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học.... Vấn đề quan trọng là mỗi thanh niên cần xác định rõ mục tiêu học tập là để nâng cao chất lượng chuyên nôn, để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, do vậy mỗi đoàn viên thanh niên phải nỗ lực phấn đấu, trau dồi kiến thức với tinh thần tự giác cao để trở thành người lao động có học vấn, có chuyên môn nghiệp vụ giỏi đáp ứng yêu cầu công việc với năng suất, chất lượng và hiệu quả cao. Trong những năm qua, đoàn thanh niên đã khởi xướng nhiều phong trào, nhiều cuộc vận động có ý nghĩa thiết thực đã được đại đa số cán bộ, đoàn viên thanh niên nhiệt tình hưởng ứng. Thông qua các phong trào đó, đã góp phần bồi dưỡng giáo dục cho thanh niên, nâng cao nhận thức chính trị, phát huy tính xung kích, tình nguyện của tuổi trẻ trong sự nghiệp xây dựng và bảo về Tổ quốc. Đây chính là sự khẳng định khát vọng được cống hiến, rèn luyện và trưởng thành, sự thống nhất về chính trị, tư tưởng của thế hệ trẻ ủng hộ và tích cực tham gia công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo.
Thấm nhuần và quán triệt tư tưởng của Người, Đảng và Nhà nước ta luôn đề cao vai trò của thế hệ trẻ; coi đây là lực lượng xung kích, là đội dự bị tin cậy của Đảng. Sự nghiệp cách mạng có thành công hay không, vị thế đất nước có được nâng lên hay không phụ thuộc vào thế hệ trẻ hôm nay. Tuổi trẻ hôm nay nguyện học tập và làm theo lời Bác với tinh thần "Không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền, đào núi và lấp biển, quyết chí ắt làm nên". Tấm lòng và tình cảm của Bác Hồ với thế hệ trẻ là nguồn động lực cổ vũ, khích lệ tuổi trẻ hăng hái, xung kích cùng toàn dân xây dựng và phát triển đất nước vì mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh"

Tình yêu Bác Hồ dành cho những khúc dân ca

Đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều bài báo, lời ca, câu truyện… ngợi ca vẻ đẹp con nguời Hồ Chí Minh - đó là vẻ đẹp của sự hoàn mỹ nhưng không xa lạ, vĩ đại mà gần gũi thân thương, toả sáng mà ấm áp hiền hoà. Bản thân Người, cuộc đời của Người là nguồn đề tài bất tận cho tất thảy những ai khao khát mong muốn cái đẹp “gieo mầm cho sự sống”. Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đã khiến cho mỗi chúng ta biết dừng lại trong nhịp sống hối hả của cơ chế thị trường để tự soi mình vào tấm gương đạo đức Bác Hồ, tự gột rửa mình, làm cho mình sống tốt đẹp hơn lên, có ích cho gia đình và xã hội hơn. Và trước muôn vàn câu truyện kể về Người, trái tim tôi lại trào lên xúc cảm trước những phút giây cuối cùng trong cuộc đời Bác – đó là câu truyện về tình yêu của Người dành cho những khúc hát dân ca.
Vào buổi sáng ngày 2/9/1969, đây là buổi sáng cuối cùng trong cuộc đời 79 mùa xuân của Bác. Bởi sau 9 giờ sáng hôm ấy Người thực sự bước vào “cuộc trường chinh nhẹ cánh bay”, để lại cho nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới một niềm đau thương, mất mát không thể nào diễn tả nổi bằng mọi ngôn từ.
Không gian của câu truyện cũng chỉ thu nhỏ trong căn nhà A67. Căn phòng này cách ngôi nhà sàn của Bác chỉ vài chục bước chân. Trước đó, theo lời đề nghị của bác sỹ, để tiện cho việc theo dõi, chăm sóc sức khoẻ của Người, ngày 18/8/1969, các đồng chí trong Bộ Chính trị và những đồng chí trực tiếp chăm sóc Bác đã chuyển Bác xuống ở căn phòng này.
Sau gần 20 ngày chống chọi với bệnh tật, Bác đã yếu lắm. Nhưng hễ tỉnh lại là ngay lập tức, Người hỏi thăm tình hình chiến đấu ở miền Nam, tình hình lũ lụt ở miền Bắc. Người còn dặn các đồng chí trong Bộ Chính trị phải làm sao tổ chức ngày lễ Quốc khánh thật long trọng để nhân dân vui, phải bắn pháo hoa cho nhân dân phấn khởi. Trong những giây phút cuối cùng, đứng giữa ranh giới mong manh của sự sống và cái chết, đối diện với quy luật nghiệt ngã của sự tồn vong Bác vẫn luôn nghĩ cho đồng bào, cho đất nước mà “nâng niu tất cả chỉ quên mình”. Nằm trên giường bệnh, sáng 2/9, lúc này Người đã rất mệt, mong muốn cuối cùng của Người là được gặp và thăm đồng bào miền Nam không thực hiện được, hơi thở của người mỗi lúc một yếu dần. Các đồng chí trong Bộ Chính trị và các bác sỹ không ai nỡ rời xa Người dù chỉ là một phút. Lần đầu tiên tỉnh lại sau cơn đau, Người nhìn xung quanh rồi hỏi:
- Trong các chú có ai biết hò Huế không?
Mọi người lúng túng nhìn nhau, quả là một tình huống không ai chuẩn bị trước. Thường ngày, Người vẫn thường nói “miền Nam luôn ở trong trái tim tôi”, thêm vào đó Huế vốn là mảnh đất gắn bó cùng Người suốt một thời gian dài tuổi thơ. Giờ đây, trong những phút cuối cùng, có lẽ Người mong muốn mang hình ảnh miền Nam yêu thương, hình ảnh núi Ngự, sông Hương với những kỷ niệm buồn đau theo mình vào cõi vĩnh hằng bất tử. Nỗi niềm ấy của người dường như ai cũng thấu hiểu, nhưng tìm nghệ sỹ hò Huế lúc này thật khó.
Lần thứ hai tỉnh lại, Người lại hỏi. Lúc này giọng người đã yếu hơn nhiều:
- Trong các chú, ai có thể hát cho Bác nghe một làn điệu ví dặm Nghệ Tĩnh được không?
Thêm một lần nữa sự im lặng và bối rối bao trùm căn phòng. Câu ví dặm câu hát dân ca xứ Nghệ đã bao bọc và nuôi dưỡng tâm hồn Người từ thủa lọt lòng. Người lớn lên và đi ra thế giới từ chiếc nôi văn hoá quê hương mặn mòi tình nghĩa ấy. Trước giây phút sắp biệt ly Người khao khát được nghe, được sống trong hơi ấm quê hương.
Lần thứ ba tỉnh lại, Người ngỏ ý muốn nghe một khúc dân ca quan họ Bắc Ninh, lần này thật may mắn khi cô y tá bé nhỏ Ngô Thị Oanh tiến lại gần Bác: “Thưa Bác, cháu xin hát cho Bác nghe ạ”. Với chất giọng trong trẻo của người con gái Vĩnh Phúc, chị cất lời hát “Người ở đừng về”... Căn phòng nhỏ chìm trong tiếng hát. Tiếng hát hay tiếng lòng! Không ai phân biệt được. Chỉ biết rằng lời quan họ sâu lắng, tha thiết quá. “Người ơi, người ở đừng về. Mà người ơi, người ở đừng về” đã nói hộ lòng người. Cô y tá càng hát càng ngẹn ngào, những người xung quanh không ai cầm được nước mắt. 9 giờ 47 phút ngày 2/9/1969 trái tim vĩ đại của Bác Hồ đã ngừng đập, để lại muôn vàn tình thương yêu cho đồng bào cả nước. Sinh ra và lớn lên từ trong câu hát dân ca, từ điệu ví dặm ầu ơ ngọt ngào đằm thắm của mẹ, cuối cùng Người thanh thản nhẹ nhàng bước vào cuộc trường sinh bằng âm hưởng tiếng hát dân ca.
Sau này, trong một bài báo tôi còn được biết chị Ngô Thị Oanh, cô y tá viện quân y 108, người hát khúc hát dân ca “Người ở đừng về” vào những giây phút cuối cùng của cuộc đời Bác kể lại: Sau khi chị hát xong, Bác Hồ nhìn chị, chị cảm giác như Bác đang mỉm cười. Người còn bảo lấy bông hoa hồng bạch trên bàn mang tặng chị. Cử chỉ nhỏ mà ý nghĩa thật to lớn. Cho đến phút cuối đời, quên cả nỗi đau đang vò xé, Người vẫn giành trọn niềm yêu thương, sự quan tâm đặc biệt cho mỗi người, đặc biệt là phụ nữ. Và bông hoa hồng nhỏ bé ấy chị đã ép khô để luôn giữ và xem nó là vật kỷ niệm thiêng liêng theo chị suốt cả cuộc đời:
Giấu mình đi Người chẳng làm phiền ai cả
Dép một đôi, áo quần vài bộ
Chỉ có trái tim bao la là tất cả gia tài
Câu truyện giản dị mà sâu sắc như biết bao câu truyện kể về Người. Từ những tình tiết của câu truyện ta nhận thấy ở Người một tình yêu lớn bao la và đặc biệt. Ngưòi không chỉ yêu cuộc sống, yêu con người, không những chẳng làm đau một chiếc lá trên cành, thích sống hoà đồng với thiên nhiên, cỏ cây hoa lá mà Người còn yêu biết mấy những khúc hát dân ca. Người thèm nghe một câu hò Huế, một làn điệu ví dặm hay một khúc quan họ đâu phải chỉ là nghe hát mà chính là để mang cả hình ảnh quê hương xứ sở, hình ảnh miền Nam yêu thương vào cuộc trường sinh. Cả cuộc đời người sống cho nhân dân, cho dân tộc, không gợn chút riêng tư, hành trang mà Người mang theo về thế giới người hiền chỉ là ước nguyện bình dị : Mang theo âm hưởng câu hát dân ca vào cõi bất tử. Người đã để lại cho chúng ta bài học sâu sắc, thấm thía rằng muốn yêu Tổ quốc mình, càng yêu tha thiết những câu hát dân ca. Bởi khúc dân ca là linh hồn, là nơi nắng đọng tình yêu, tinh hoa, bản sắc văn hoá dân tộc. Nó là nguồn sữa tinh thần bồi đắp và nuôi dưỡng tâm hồn con người. Trước lúc đi xa Người muốn thế hệ sau hãy yêu những câu hát dân ca, hãy trân trọng và giữ gìn nền văn hoá của dân tộc.

Vai trò của Đảng cộng sản Việt Nam

Ngày 3 tháng 2 năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, là một mốc son lịch sử đánh dấu bước ngoặt lớn của cách mạng Việt Nam, đưa cuộc đấu tranh của dân tộc vào thời kỳ phát triển mới.
Hơn 80 năm qua, mỗi thắng lợi của cách mạng Việt Nam đều gắn liền với vai trò của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trước các nhiệm vụ lịch sử, Đảng và Bác Hồ đã kịp thời xác định đúng đắn, sáng tạo đường lối, chiến lược, sách lược đưa cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
. Trước năm 1930 khi chưa có Đảng, đất nước ta chìm đắm dưới ách thống trị, áp bức hơn 80 năm của chủ nghĩa thực dân Pháp và hàng trăm năm của chế độ phong kiến thối nát. Biết bao cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của nhân dân ta đã liên tiếp nổ ra nhưng kết cục đều thất bại do thiếu một đường lối chính trị đúng đắn soi đường. Phong trào đấu tranh dưới ngọn cờ "" của các sĩ phu yêu nước lãnh đạo cùng với các cuộc khởi nghĩa nông dân lấy hệ tư tưởng phong kiến làm nền tảng đã tỏ ra lỗi thời, bất lực trước các nhiệm vụ lịch sử. Các phong trào đấu tranh dưới ngọn cờ của giai cấp tư sản dân tộc cũng nhanh chóng lộ rõ sự yếu hèn, thất bại trước các nhiệm vụ lịch sử. Chỉ có phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân liên minh với giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam trong hành động cách mạng, kiên trì mục tiêu đấu tranh giành độc lập dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội là giành được những thắng lợi vẻ vang.
Sự lựa chọn đúng đắn con đường cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp cách mạng vĩ đại của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Từ một người yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và Cách mạng Tháng Mười Nga, Người đã sớm nhận ra rằng, “. Đó chính là chủ nghĩa Mác - Lênin, một học thuyết cách mạng và khoa học nhất về con đường giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người. Ngay từ những năm đầu thập niên 20, thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã có sự lựa chọn đúng đắn khẳng định con đường đi đến thắng lợi của cách mạng Việt Nam: ""[1]. Trải qua thực tiễn cuộc sống, hoạt động cách mạng phong phú và tiếp thu chân lý khoa học, Người đã đi đến kết luận chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu được nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên trái đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc.
lập"[2].
Từ khi có Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã trải qua những chặng đường đấu tranh oanh liệt và thắng lợi vẻ vang, từng bước mang lại độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (2/9/1945) mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc Việt Nam - độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Vận mệnh của Đảng gắn liền với vận mệnh của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của toàn dân tộc. Mối liên hệ mật thiết giữa Đảng và quần chúng nhân dân là nguồn gốc sức mạnh và thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong bài viết nhân dịp kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Đảng đã đoàn kết được những lực lượng cách mạng to lớn chung quanh giai cấp mình. Còn các đảng phái của các giai cấp khác thì hoặc bị phá sản, hoặc bị cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta - Đảng của giai cấp công nhân - không ngừng củng cố và tăng cường"[3].
Trong thực tiễn, Đảng luôn kết hợp chặt chẽ giữa kiên trì chuẩn bị lực lượng với nắm vững thời cơ, khi thời cơ đến đã biết chớp lấy, kịp thời tổ chức, động viên nhân dân cả nước đứng lên đấu tranh giành thắng lợi. Hội nghị Trung ương lần thứ tám của Đảng (10/5 - 19/5/1941) đã có quyết định chuyển hướng chiến lược đấu tranh cách mạng kịp thời thành lập Mặt trận Việt minh, ra lời kêu gọi toàn thể dân tộc Việt Nam đoàn kết, đứng lên chống phát-xít, giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Sau khi phát-xít Đức, Ý bại trận, phát-xít Nhật sửa soạn đầu hàng (7/1945), Hồ Chí Minh vẫn rất sáng suốt nhận định thời cơ cách mạng đang đến gần và nhắc nhở các đồng chí Trung ương: "Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh đến đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập"[4].
Ngay sau ngày giành được độc lập (02/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã khẩn trương lãnh đạo nhân dân cả nước bắt tay vào thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược gắn xây dựng với bảo vệ chính quyền cách mạng; trong đó trọng tâm là xây dựng, lấy xây dựng làm điều kiện cho bảo vệ. Trong cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp xâm lược, Trung ương Đảng, Bác Hồ đã đề ra đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo - "", kháng chiến đi đôi với kiến quốc để kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công. Qua đó, làm chuyển hóa thế trận, thay đổi tương quan lực lượng có lợi cho cách mạng, từng bước tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.
Sau năm 1954, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng nhưng miền Nam vẫn tạm thời bị Mỹ, ngụy chiếm đóng. Trên cơ sở phân tích tình hình, nhận thức rõ những mâu thuẫn khác nhau ở mỗi miền Nam, Bắc, Đảng và Hồ Chí Minh đã xác định đúng đắn hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là vừa tích cực xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa tiến hành triệt để cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam, hoàn thành mục tiêu giải phóng dân tộc trong cả nước, đưa cả nước lên chủ nghĩa xã hội. Điều đáng chú ý là cả hai cuộc cách mạng đó đều được xác định nằm trong quỹ đạo cách mạng vô sản và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau không thể tách rời. Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Hiện nay nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân ta là gì? Là xây dựng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội để làm cơ sở vững chắc cho việc đấu tranh thống nhất nước nhà. Muốn đấu tranh thống nhất nước nhà thắng lợi thì nhất định phải xây dựng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội"[5]. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước không được phép lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là tư tưởng chiến lược xuyên suốt của cách mạng Việt Nam.
4. Đảng luôn nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và trải nghiệm thực tiễn để có đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo làm nên những bước ngoặt lớn của cách mạng Việt Nam. Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước do Đảng ta khởi xướng trong bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, đất nước chồng chất khó khăn càng làm nổi bật những thành tựu đạt được sau 25 năm đổi mới là rất to lớn và có ý nghĩa lịch sử, khẳng định lý tưởng cộng sản cao đẹp, sức sống bền vững của chủ nghĩa xã hội hiện thực và tầm nhìn chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đất nước có hòa bình, thống nhất, cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhưng với mô hình và kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa áp dụng vào Việt Nam đã nhanh chóng bộc lộ khuyết tật, sai lầm của nó. Nhưng sau mỗi sai lầm, vấp ngã, Đảng đã dũng cảm "nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật", kiên quyết sửa chữa, kịp thời tổng kết rút ra những bài học từ những thành công và cả những sai lầm, thất bại, kiên trì sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hai mươi lăm năm qua với bản lĩnh, trí tuệ và đạo đức cao đẹp của một Đảng cách mạng cầm quyền dày dạn kinh nghiệm, luôn biết tự đổi mới, tự chỉnh đốn tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước vươn lên giành nhiều thắng lợi mới. Mô hình, mục tiêu và con đường, biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sâu sắc, đầy đủ hơn. Mặc dù cách mạng còn nhiều khó khăn, lâu dài nhưng nhất định thắng lợi. Bởi đó là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn của cách mạng Việt Nam phù hợp với quy luật tiến hóa của lịch sử nhân loại. Đường lối đổi mới của Đảng xa lạ với những gì mà kẻ thù lâu nay vẫn ra sức tuyên truyền xuyên tạc rằng con đường phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa của chúng ta là "sản phẩm ngoại nhập, không có tương lai". Nhất là từ sau những sai lầm về đường lối cải tổ dẫn tới sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô những năm cuối thế kỷ XX. Kẻ thù đã lớn tiếng tuyên bố rằng chủ nghĩa Mác - Lênin đã bị phủ định ngay tại quê hương của nó bởi sự lỗi thời; hơn nữa, khi du nhập vào Việt Nam đã bị cắt xén, biến dạng thành bạo lực đấu tranh; kinh tế trì trệ, suy thoái, khủng hoảng…; là những biểu hiện của “hồi kết”, “Chương thử nghiệm cuối cùng của chủ nghĩa cộng sản"; "sự toàn thắng của chủ nghĩa tư bản".v.v.. Nhưng thắng lợi của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước 25 năm qua của dân tộc ta đã bác bỏ những luận điệu xuyên tạc xằng bậy đó của kẻ thù.
Giữ vững nguyên tắc độc lập, sáng tạo, trung thành với lợi ích của nhân dân, bám sát thực tiễn cuộc sống, xác định đường lối, chính sách đúng đắn và nhanh chóng đưa vào cuộc sống hướng dẫn hoạt động cách mạng của nhân dân là bí quyết thành công của Đảng ta. Ngay từ đầu, Đảng đã xác định rõ khâu đột phá của sự nghiệp đổi mới là đổi mới tư duy nhưng trọng tâm lại là đổi mới kinh tế. Đổi mới kinh tế kết hợp với đổi mới chính trị làm cơ sở cho sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, quyết tâm xây dựng một xã hội "". Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân và vì dân, phát huy được sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Để tiếp tục tạo cơ sở vững chắc trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước trong những năm tới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã xác định rõ để toàn Đảng, toàn dân ta quán triệt và thực hiện: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường. phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất. xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Với những phương hướng cơ bản trên, chắc chắn trong thời gian tới, Đảng ta sẽ tiếp tục lãnh đạo đất nước tiến lên không ngừng, đạt được nhiều thắng lợi to lớn hơn trong sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước./.
[1] Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr 314.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr 2.
[3] Hồ Chí Minh Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr9.
[4] Võ Nguyên Giáp, Những chặng đường lịch sử, Nxb Văn học, Hà Nội, 1977, tr 203.
[5] Hồ Chí Minh , tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 248-249.

Những vấn đề ngỏ trong Dự thảo Hiến pháp


Bước vào giai đoạn xây dựng nền kinh tế thị trường, xây dựng nhà nước pháp quyền, hội nhập và toàn cầu hóa, nhiều thể chế pháp luật ở Việt Nam đã không còn phù hợp, thậm chí quá lạc hậu, không những không đóng vai trò hiệu quả trong việc ổn định và phát triển xã hội, mà còn gây ra nhiều hệ lụy trong xã hội như tình trạng tham nhũng, vi phạm các quyền dân chủ và bất nhất trong việc thực thi pháp luật ở nhiều mức độ khác nhau. Xây dựng nền kinh tế thị trường phải dựa trên nền tảng pháp quyền nhằm chống lại tình trạng lạm dụng, tha hóa quyền lực, cửa quyền, lợi ích nhóm trong các cơ quan nhà nước và bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân.
Pháp quyền là giới hạn và kiểm soát quyền lực nhà nước trong khuôn khổ pháp luật. Hơn nữa, toàn cầu hóa và hội nhập buộc chúng ta phải thay đổi để phù hợp với các chuẩn mực phổ quát chung của thế giới trên cả phương diện kinh tế lẫn chính trị.
Việc sửa đổi Hiến pháp được đặt trong bối cảnh như vậy, và do vậy nhân dân và toàn xã hội mong đợi đây sẽ là lần sửa đổi to lớn, góp phần giải quyết các vấn đề chính trị, kinh tế và xã hội đang đặt ra. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng cũng đã nêu rõ chủ trương "Khẩn trương nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 phù hợp với tình hình mới".
Tuy nhiên, trong quá trình sửa đổi Hiến pháp, Đảng đã xác định rõ chủ trương chỉ tập trung sửa đổi các quy định Hiến pháp cho phù hợp hơn với tình hình mới: Tiếp tục khẳng định những nguyên tắc nền tảng, có chỉnh lý lại một số nội dung, kỹ thuật lập hiến cho phù hợp hơn với tình hình mới[1]. Cùng với đó, những kết quả tổng kết thi hành Hiến pháp cũng chỉ ra nhiều bất cập của Hiến pháp hiện hành, theo đó đề xuất không ít các giải pháp lớn, có ý nghĩa nhằm sửa đổi, bổ sunng Hiến pháp của chúng ta.
Vậy đâu là những điểm mới của Dự thảo Hiến pháp? Những sửa đổi trong Dự thảo là những sửa đổi lớn hay không cơ bản?
Trước tiên, cần phải khẳng định Dự thảo Hiến pháp đã có những tiến bộ khá lớn trong việc bổ sung, hoàn thiện các quyền con người, quyền công dân theo xu hướng tiến bộ chung của Hiến pháp các nước cũng như pháp luật quốc tế. Sự bổ sung khái niệm "quyền con người" vào tên chương cùng những thay đổi của các quy định cụ thể theo hướng bổ sung, hoàn thiện các quyền con người là những thay đổi rất quan trọng trong Dự thảo Hiến pháp.
Tuy nhiên, những bất cập vẫn còn. Mặc dù đã bị lược bỏ nhiều, cách quy định đặt các quyền hiến định "...theo quy định của pháp luật" vẫn còn trong Dự thảo: Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, được thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật (Điều 26 (sửa đổi, bổ sung Điều 69); Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật (K2. Điều 31 (sửa đổi, bổ sung Điều 74).
Cách quy định như vậy dễ dẫn đến sự tùy tiện của các cơ quan Nhà nước trong việc giới hạn, thu hẹp các quyền hiến định của người dân. Ngoài một số ít quyền đặc thù chỉ giành cho công dân như quyền bầu cử, ứng cử, các quyền con người là những quyền của tất "mọi người"[2], không phân biệt quốc tịch. Vậy có phải chỉ có "Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, được thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình..."  theo Điều 26 (Sửa đổi, bổ sung Điều 69)?
Ngoài ra, người dân khó có thể thực hiện quyền dân chủ trực tiếp khi Dự thảo Hiến pháp vẫn trao cho Quốc hội quyết định việc trưng cầu dân ý (Điều 30; K15, Điều 75). Trên thực tế, người dân Việt Nam chưa từng bao giờ tham gia quyết định trực tiếp trong bất kỳ cuộc trưng cầu dân ý nào.
Mặc dù nhiều người đề nghị dự thảo Hiến pháp phải được thông qua phúc quyết toàn dân nhằm đảm bảo chủ quyền cũng như sự đồng thuận của nhân dân với bản Hiến pháp, nhưng Dự thảo vẫn không có quy định này.
Việc quy định các quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp đặt ra nghĩa vụ của Nhà nước trong việc tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy các quyền đó. Do vậy, Hiến pháp một mặt phải ghi nhận đầy đủ các quyền cơ bản, mặt khác phải thiết lập các cơ chế để Nhà nước thực hiện các nghĩa vụ bảo đảm các quyền đó. Thiếu các cơ chế hiệu quả và trách nhiệm, các quyền hiến định chỉ có giá trị hình thức. Tuy nhiên, cũng như Hiến pháp hiện hành, Dự thảo Hiến pháp ít tạo ra các cơ chế hiệu quả bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Dự thảo Hiến pháp không thành lập mới các thiết chế hiến định độc lập (Tòa án hiến pháp, hội đồng/ủy ban bảo vệ quyền con người; Hội đồng/Ủy ban chống tham nhũng độc lập...) có vai trò bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người, quyền công dân.
Dự thảo cũng chưa thực sự có những điều chỉnh cơ bản để thúc đẩy các thiết chế hiện có trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân như thúc đẩy nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước, nâng cao hiệu quả giám sát của Quốc hội và đảm bảo tính độc lập của tòa án.
Điểm mới tiếp theo của Dự thảo là những cố gắng trong việc điều chỉnh tổ chức và hoạt động của của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phù hơn với tình hình mới.
Bằng việc quy định "các tòa án khác" thay vì "các tòa án địa phương", Dự thảo mở đường cho việc thiết lập mô hình tòa án theo cấp xét xử thay cho mô hình tòa án theo đơn vị hành chính lãnh thổ nhằm góp phần đảm bảo nguyên tắc độc lập của tòa án với các cơ quan Đảng, Nhà nước ở địa phương.
Tương tự, quy định mở về "Việc thành lập Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ở các đơn vị hành chính lãnh thổ do luật định phù hợp với đặc điểm của từng đơn vị hành chính lãnh thổ và phân cấp quản lý" (K2, Điều 115) sẽ tạo điều kiện cho việc thiết kế tổ chức không có Hội đồng nhân dân ở một số cấp trong thời gian tới phù hợp với tình hình cụ thể ở từng địa phương. Dự thảo lần đầu tiên quy định các thiết chế hiến định mới, bao gồm Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử quốc gia và kiểm toán nhà nước (Chương X).
Tuy vậy, việc cải cách bộ máy Nhà nước theo định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền (Điều 2) vẫn khá mờ nhạt trong các quy định cụ thể của Dự thảo.
Sau nhiều nỗ lực và thảo luận ở nhiều cấp, một cơ quan có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp đã ra đời: Hội đồng Hiến pháp. Theo quy định này của Dự thảo, Hội đồng Hiến pháp không phải là một cơ quan tài phán hiến pháp độc lập, mà hoàn toàn là một cơ quan chính trị: Hội đồng Hiến pháp không độc lập do Quốc hội thành lập, giúp Quốc hội thực hiện chức năng bảo hiến; Hội đồng Hiến pháp không có quyền tài phán, mà chỉ có quyền kiến nghị Quốc hội và các cơ quan Nhà nước xem xét khi phát hiện các vi phạm Hiến pháp. Tuy vậy, với tính cách là cơ quan chính trị, Hội đồng Hiến pháp sẽ rất khó đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ Hiến pháp.
Việc thành lập một Tòa án Hiến pháp độc lập, có thẩm quyền rộng rãi và tạo điều kiện thuận lợi cho người dân được quyền khởi kiện trực tiếp là những điều kiện tiên quyết tạo ra sự thành công của thiết chế bảo hiến. Nếu chưa thành lập được Tòa án Hiến pháp, thì Hội đồng Hiến pháp theo Dự thảo cũng cần phải được cải cách theo hướng nâng cao hơn tính độc lập và thẩm quyền của cơ quan này. Tương tự, Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán nhà nước cũng là những cơ quan do Quốc hội thành lập, có tính phụ thuộc vào Quốc hội.
Phân công và kiểm soát quyền lực là nội dung cốt lõi của tất cả các Hiến pháp dân chủ và tiến bộ. Tuy nhiên, nguyên tắc hiến định "Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp" (Điều 2) chưa được cụ thể hóa trong các quy định của Dự thảo về tổ chức và hoạt động của các cơ quan Nhà nước.
Các quy phạm Hiến pháp vẫn đảm bảo về hình thức quyền lực tối cao và tập trung của Quốc hội. Tuy nhiên, thực tiễn chính trị lại cho thấy tính hình thức trong thực thi quyền lực của Quốc hội và sự chuyển dịch quyền lực khó kiểm soát vào hành pháp và chính quyền địa phương. Hệ thống tòa án thì thiếu tính độc lập cần có trong tổ chức và hoạt động xét xử.
Xét một tổng thể, Dự thảo Hiến pháp phản ánh quan điểm sửa đổi Hiến pháp "chậm chắc"..Xét những yêu cầu đặt ra của việc sửa đổi Hiến pháp, Dự thảo Hiến pháp còn bỏ ngỏ khá nhiều vấn đề lớn cần tiếp tục được thảo luận để từ đó có những sửa đổi, bổ sung thích hợp nhằm đáp ứng các mong muốn, nguyện vọng chính đáng của nhân dân.

TS. Đặng Minh Tuấn, Khoa Luật-Đại học Quốc gia Hà Nội

Những điểm nhấn đáng chú ý trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp

 Đợt tập trung lấy ý kiến nhân dân vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 kéo dài 3 tháng, từ ngày 2-1 đến 31-3-2013. Như vậy, chỉ còn khoảng 2 tháng để người dân tập trung cho ý kiến vào đạo luật "gốc" này. Sau đây bài viết xin giới thiệu một số nội dung được coi là tâm điểm chú ý của bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. 

Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 công bố để lấy ý kiến nhân dân gồm 11 chương với 124 điều, giảm 1 chương và 23 điều, trong đó, giữ nguyên 12 điều, bổ sung, sửa đổi 101 điều, bổ sung 11 điều mới.

Quy định về quyền lực nhà nước là một trong những điểm nhấn của Dự thảo sửa đổi lần này. Thứ trưởng Bộ Tư pháp Hoàng Thế Liên cho biết, trong những quy định về bộ máy nhà nước, Dự thảo xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan thực hiện "tam quyền": quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Ngoài nguyên tắc tất cả quyền lực thuộc về nhà nước, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp khẳng định Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp và kiểm soát quyền lực. Toàn bộ Dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã tập trung thể hiện nội dung kiểm soát quyền lực. Cụ thể là theo ba hướng: Thứ nhất, thẩm quyền từng bộ máy trong các cơ quan nhà nước được quy định rõ hơn; thứ hai, đề cao dân chủ trực tiếp của nhân dân, người dân được quyền lập hội để tham gia kiểm soát quyền lực nhà nước, đồng thời giao cho Mặt trận Tổ quốc chức năng rất lớn là giám sát và phản biện các cơ quan nhà nước; thứ ba là thiết lập một số thiết chế, hiến định độc lập như Kiểm toán Nhà nước, Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng Bầu cử quốc gia. Trong đó, Hội đồng Hiến pháp (theo Điều 120) sẽ kiểm tra tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội, Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành. Trong khi đó, Điều 122 xác định rõ địa vị pháp lý của Kiểm toán Nhà nước thay vì chỉ căn cứ vào Luật Kiểm toán Nhà nước năm 2005 như hiện nay.

Theo Thứ trưởng Hoàng Thế Liên, về chính quyền địa phương, tổng kết cho thấy có nhiều vấn đề quá phức tạp. Chẳng hạn, địa vị pháp lý của chính quyền địa phương, Hiến pháp 1992 quy định, Ủy ban Thường vụ Quốc hội hướng dẫn, giám sát HĐND; Chính phủ hướng dẫn và kiểm tra HĐND. Quy định như vậy là không thật rõ. Dự thảo sửa đổi Hiến pháp lần này đã khắc phục được vấn đề này. Tổ chức bộ máy chính quyền ở địa phương đã có sự khác biệt, không phải ở đâu cũng có HĐND, ngoài ra còn có sự phân biệt giữa chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn. Dự thảo cũng đề cập đến việc phân công, phân quyền ở chính quyền địa phương như đề cao trách nhiệm cá nhân ở UBND các cấp, phân công phân quyền ở HĐND. Dự thảo sửa đổi Hiến pháp giao cho hệ thống luật quy định cách thức tổ chức từng cấp chính quyền địa phương.

Một trong những nội dung rất đáng quan tâm trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 là Điều 54. Trước đó, bản dự thảo được trình Quốc hội thảo luận quy định: 1. Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Mục đích phát triển kinh tế là làm cho dân giàu, nước mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân. 2. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, cùng phát triển lâu dài, hợp tác, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể với các hình thức hợp tác được củng cố và phát triển. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển.

Tuy nhiên, bản Dự thảo mới nhất công bố xin ý kiến nhân dân đã được chỉnh sửa theo ý kiến góp ý của các đại biểu Quốc hội. Điều 54 bản Dự thảo quy định: 1.1. Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. 2. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, cùng phát triển lâu dài, hợp tác, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật.

Quy định này thể hiện rất rõ sự bình đẳng trước pháp luật của các thành phần kinh tế. Điều này được nhiều chuyên gia cho rằng, sẽ góp phần tạo sự chuyển biến tốt hơn cho nền kinh tế đất nước, giảm bớt những ưu ái dễ dẫn đến tình trạng "ỉ lại" của các doanh nghiệp nhà nước…